Bệnh dại (Rabies) là gì?
Bệnh dại là bệnh nhiễm vi-rút cấp tính của hệ thần kinh trung ương, lây từ động vật sang người qua chất tiết, thường là nước bọt bị nhiễm vi-rút dại. Hầu hết các trường hợp phơi nhiễm với vi-rút dại qua vết cắn, vết liếm của động vật mắc bệnh dại, đôi khi qua đường tiếp xúc như hít phải khí dung hoặc cấy ghép mô/cơ quan bị nhiễm vi-rút dại. Khi đã lên cơn dại, kể cả động vật và người đều có tỷ lệ tử vong gần như 100%.
Ổ chứa vi-rút dại trong thiên nhiên thường là các loài động vật có vú như chó, mèo, dơi, cáo … Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính mỗi năm có khoảng 59.000 người chết vì bệnh dại trên toàn thế giới. Hầu hết những trường hợp tử vong xảy ra ở các nước nghèo vì không kiểm soát được bệnh dại ở động vật nuôi là chó, mèo.
Làm sao chẩn đoán bệnh dại?
Bệnh dại gồm các giai đoạn bệnh như sau:
– Giai đoạn ủ bệnh: trung bình 20-60 ngày nhưng có thể kéo dài từ 4 ngày đến nhiều năm sau (y văn ghi nhận có trường hợp ủ bệnh đến 19 năm), thời kì ủ bệnh ngắn khi vết thương ở vùng đầu mặt hoặc lây bệnh qua ghép giác mạc.
– Giai đoạn khởi phát: thường 2-10 ngày, biểu hiện cảm giác sợ hãi, đau đầu, sốt, mệt mỏi, khó chịu, cảm giác tê và đau tại vết thương nơi vi-rút xâm nhập.
– Giai đoạn toàn phát hoặc “giai đoạn viêm não”: thường biểu hiện mất ngủ, tăng cảm giác kích thích như sợ ánh sáng, tiếng động và gió nhẹ. Ngoài ra, còn có rối loạn hệ thần kinh thực vật như giãn đồng tử, tăng tiết nước bọt, vã mồ hôi, hạ huyết áp … Bệnh tiến triển theo hai thể: thể liệt kiểu hướng lên (hội chứng Landly) và thể hung dữ chiếm 80%. Giai đoạn này thường kéo dài 2- 6 ngày, đôi khi lâu hơn và chết do liệt cơ hô hấp. Thể liệt thường sống lâu hơn thể hung dữ vài ngày.
Chẩn đoán sơ bộ bệnh dại: thường dựa vào các triệu chứng lâm sàng, đặc biệt là sợ nước, sợ gió, sợ ánh sáng và các yếu tố dịch tễ có liên quan.
Chẩn đoán xác định bệnh dại: bằng xét nghiệm kháng thể miễn dịch huỳnh quang trực tiếp (IFA) từ mô não hoặc phân lập vi-rút trên chuột hay trên hệ thống nuôi cấy tế bào. Có thể dựa vào kết quả xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang của các mảnh cắt da đã làm đông lạnh lấy từ dìa tóc ở gáy bệnh nhân hoặc chẩn đoán huyết thanh bằng phản ứng trung hoà trên chuột hay trên nuôi cấy tế bào. Ngày nay, với kỹ thuật mới chẩn đoán bệnh dại có thể được thực hiện bằng cách phân lập vi-rút hoặc phát hiện RNA vi-rút bằng xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase (PCR) từ nước bọt, dich não tủy, nước tiểu, mô sinh thiết (não, da).
Điều trị bệnh dại như thế nào?
Hiện chưa có phương thức điều trị đặc hiệu cho bệnh dại. Điều trị chủ yếu là hỗ trợ (oxy liệu pháp, thở máy, truyền dịch, vận mạch) và chăm sóc giảm nhẹ (an thần, giảm đau, chống co giật …).
Các biện pháp phòng bệnh dại
Cần thực hiện phối hợp nhiều biện pháp, bao gồm: cảnh giác với động vật có nguy cơ lây bệnh dại; phòng bệnh dại trên động vật (chích ngừa bệnh dại cho chó, mèo…); phòng bệnh dại trước tiếp xúc ở các đối tượng nguy cơ cao; và phòng bệnh dại sau tiếp xúc.
Phòng bệnh dại sau tiếp xúc:
Nhóm | Tiếp xúc với động vật nghi dại/bị dại/mất theo dõi | Phân loại tiếp xúc | Khuyến cáo dự phòng |
I | Sờ hoặc cho động vật ăn
Bị liếm trên da lành |
Không tiếp xúc | Không cần dự phòng |
II | Vết cắn trên da trần (chưa xuyên thấu da)
Vết xây xát nhỏ trên da không chảy máu |
Ít nghiêm trọng | Xử trí vết thương
Lập tức tiêm ngay vắc-xin (ngưng tiêm nếu con vật vẫn khỏe mạnh sau 10 ngày theo dõi hoặc được xét nghiệm là không nhiễm vi-rút dại). |
III | Một hoặc nhiều vết cắn xuyên thấu da hoặc liếm trên da bị tổn thương.
Dính nước bọt trên niêm mạc (liếm) Các tiếp xúc với dơi |
Nghiêm trọng | Xử trí vết thương
Lập tức tiêm ngay vắc-xin và huyết thanh kháng dại (ngưng tiêm nếu con vật vẫn khỏe mạnh sau 10 ngày theo dõi hoặc được xét nghiệm là không nhiễm vi-rút dại). |
1. Xử trí vết thương:
– Rửa ngay vết thương dưới vòi nước chảy trong khoảng 15 phút, có thể dùng thêm xà phòng để rửa vết thương, và phải lấy hết dị vật và mô dập nát (nếu có)
– Sát trùng vết thương bằng cồn 70o hoặc dung dịch iode, không nên khâu kín da. Nếu buộc phải khâu da, thì phải tiêm huyết thanh kháng dại vào vết thương và trì hoãn việc may vết thương ít nhất vài giờ.
– Nếu vết thương xuyên thấu, chảy máu, vị trí ở đầu, mặt, cổ và bộ phận sinh dục, thì phải dùng huyết thanh kháng dại tiêm sâu bên trong và xung quanh vết thương
– Tiêm phòng bệnh uốn ván
– Dùng kháng sinh dự phòng nhiễm trùng vết thương (nếu có chỉ định).
2. Tiêm huyết thanh kháng dại:
– Được chỉ định ở tất cả các tiếp xúc nhóm III (và nhóm II ở người có suy giảm miễn dịch). Huyết thanh kháng dại từ người: liều 20 IU/kg. Huyết thanh kháng dại từ ngựa: liều 40 IU/kg.
– Nếu huyết thanh kháng dạị không có sẵn để tiêm cùng với vắc-xin kháng dại mũi 1, thì có thể trì hoãn tối đa đến 7 ngày sau.
– Không tiêm huyết thanh kháng dại nếu trước đó bệnh nhân đã được chủng ngừa dại đầy đủ
3. Tiêm vắc-xin kháng dại:
– Chỉ định ở người có các tiếp xúc thuộc nhóm II và III
– Đối tượng chưa có miễn dịch: tiêm bắp theo 1 trong 2 phác đồ (4 liều hoặc 5 liều)
-
- 5 liều: 1 liều vào các ngày 0, 3, 7, 14, 28 hoặc 30.
- 4 liều: 2 liều vào ngày 0, 1 liều vào ngày 7 và 1 liều vào ngày 21.
LƯU Ý: Nếu tiêm trong da, thì sử dụng phác đồ tiêm 2 liều (0.1ml) tại 2 vị trí khác nhau (cơ delta và cơ đùi) vào các ngày: 0, 3, 7 và 28.
– Đối tượng đã được tiêm ngừa đầy đủ trước đó hoặc có hiệu giá kháng thể trung hòa 0.5 IU/ml: tiêm 1 liều vào các ngày 0 và 3 (tiêm bắp hoặc tiêm trong da); hoặc tiêm trong da (0.1ml) 4 liều tại 4 vi trí khác nhau trong 1 lần duy nhất.
BSCK1 VÕ THANH LÂM và TS. BS. DƯƠNG BÍCH THUỶ
KHOA CCHSTCCĐ NGƯỜI LỚN BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI